Đại biểu Quốc hội là nhân tố quan trọng cấu thành nên các thiết chế của Quốc hội, là hạt nhân trung tâm của Quốc hội, các hoạt động của đại biểu Quốc hội tạo nên kết quả hoạt động chung của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội.
Vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội từng bước được khẳng định, đề cao qua các thời kỳ, thể hiện rõ nét trong Hiến pháp, Luật Tổ chức Quốc hội và các văn bản có liên quan. Xác định tầm quan trọng, trung tâm của đại biểu quốc hội, Hiến pháp 2013 và Luật Tổ chức Quốc hội 2014, sửa đổi, bổ sung năm 2020 quy định về vị trí, vai trò của đại biểu Quốc hội để tạo cơ chế và hành lang pháp lý phù hợp đảm bảo cho đại biểu Quốc hội phát huy vai trò của mình, thực hiện tốt chức năng đại diện, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội, góp phần vào thành công chung của Quốc hội.
Điều 79 Hiến pháp 2013 quy định:
“1. Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và nhân dân cả nước
2. Đại biểu Quốc hội liên hệ chặt chẽ với cử tri, chịu sự giám sát của cử tri; thu thập và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng của cử tri với Quốc hội, các cơ quan, tổ chức hữu quan; thực hiện chế độ tiếp xúc và báo cáo với cử tri về hoạt động của đại biểu và của Quốc hội; trả lời yêu cầu và kiến nghị của cử tri; theo dõi, đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo và hướng dẫn, giúp đỡ việc thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo.
3. Đại biểu Quốc hội phổ biến và vận động Nhân dân thực hiện Hiến pháp và pháp luật.”
Đại biểu Quốc hội phát huy vai trò của mình, thực hiện tốt chức năng đại diện, thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội, góp phần vào thành công chung của Quốc hội.
So với Hiến pháp 1992, Hiến pháp 2013 tiếp tục giữ quy định về vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu Quốc hội như Hiến pháp năm 1992; giữ quy định về thẩm quyền chất vấn của đại biểu Quốc hội; bổ sung quyền chất vấn của đại biểu đối với Tổng Kiểm toán nhà nước; sửa đổi quy định về việc trả lời chất vấn, theo đó, người bị chất vấn phải trả lời trước Quốc hội tại kỳ họp hoặc tại phiên họp Ủy ban Thường vụ Quốc hội trong thời gian giữa hai kỳ họp Quốc hội; trong trường hợp cần thiết, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho trả lời bằng văn bản; quy định rõ trách nhiệm thực hiện đầy đủ nhiệm vụ đại biểu; bổ sung quy định đại biểu có quyền tham gia làm thành viên của Hội đồng dân tộc hoặc các Ủy ban của Quốc hội; kế thừa và hoàn thiện các quy định về thẩm quyền trình kiến nghị về luật, pháp lệnh và trình dự án luật, dự án pháp lệnh trước Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp 2013, trong Luật Tổ chức Quốc hội 2014 và Luật sửa đổi bổ sung năm 2020, vị trí và vai trò của đại biểu Quốc hội được thể hiện rất rõ:
- Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình và của Nhân dân cả nước; là người thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực Nhà nước trong Quốc hội.
- Xác định đại biểu Quốc hội giữ vị trí hạt nhân trung tâm trong hoạt động của Quốc hội; quy định cụ thể về tiêu chuẩn, cơ cấu, thành phần đại biểu Quốc hội, có cơ chế thu hút những người đủ đức, đủ tài làm đại biểu Quốc hội; xác định tỷ lệ đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ít nhất là 40% tổng số đại biểu Quốc hội.
Đại biểu Quốc hội là người đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, giữ vị trí hạt nhân trung tâm trong hoạt động của Quốc hội.
- Quy định rõ hơn địa vị pháp lý, nhiệm vụ, quyền hạn, điều kiện bảo đảm hoạt động của đại biểu Quốc hội nói chung, đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách ở trung ương và địa phương nói riêng. Theo đó, đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách phải dành toàn bộ thời gian làm nhiệm vụ của đại biểu, làm việc tại các cơ quan của Quốc hội hoặc tại Đoàn đại biểu Quốc hội ở địa phương. Đối với các đại biểu hoạt động không chuyên trách, Luật cũng quy định trách nhiệm phải dành ít nhất một phần ba thời gian làm việc trong năm để thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của đại biểu. Với các quyền và nhiệm vụ như: tham gia các hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội; tiếp công dân, tiếp nhận và xử lý khiếu nại, tố cáo, kiến nghị của công dân; Quyền trình dự án luật, pháp lệnh và kiến nghị về luật, pháp lệnh; Quyền tham gia làm thành viên và tham gia hoạt động của Hội đồng dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; Quyền chất vấn, kiến nghị, yêu cầu cung cấp thông tin, yêu cầu khi phát hiện hành vi vi phạm pháp luật... Riêng quyền giám sát còn được quy định cụ thể tại Luật hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2015.
1. Về số lượng, cơ cấu, chất lượng đại biểu Quốc hội
Theo quy định của Luật Tổ chức Quốc hội 2014, sửa đổi bổ sung năm 2020 và Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân, quy định về số lượng đại biểu Quốc hội (ĐBQH) cơ bản được kế thừa từ các nhiệm kỳ trước đó là “không quá 500 người”. Quốc hội khóa X có 450 đại biểu, Quốc hội khóa XI có 498 đại biểu, Quốc hội khóa XII có 493 đại biểu, Quốc hội khóa XIII có 500 đại biểu, Quốc hội khóa XIV có 496 đại biểu, Quốc hội khóa XV có 499 được bầu từ đầu nhiệm kỳ. Trong tổng số các đại biểu, về cơ bản đảm bảo các cơ cấu, thành phần như đại biểu là người dân tộc thiểu số, đại biểu là phụ nữ, đại biểu là người ngoài Đảng, đại biểu trẻ tuổi… phản ánh được tính đại diện rộng rãi cho các tầng lớp nhân dân tham gia các cơ quan dân cử. Chất lượng ĐBQH cũng được nâng lên với những tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức, trình độ chuyên môn, tỷ lệ ĐBQH có trình độ trên đại học tăng (Khóa XIV: đại biểu có trình độ trên đại học chiếm 62,55%, đại biểu có trình độ đại học chiếm 36,23%; Khóa XV: đại biểu có trình độ trên đại học chiếm 78,56%, đại biểu có trình độ đại học chiếm 21,24%). Điều này góp phần nâng cao chất lượng hoạt động chung của Quốc hội.
Cơ cấu ĐBQH khóa XV.
Tuy nhiên, hiện nay việc lựa chọn người ứng cử ĐBQH phải đảm bảo cả về cơ cấu, cả về chất lượng cũng là một vấn đề tồn tại những bất cập. Để đảm bảo tính đại diện rộng rãi của nhân dân trong Quốc hội, chúng ta cần có những quy định về tỷ lệ thành phần, cơ cấu đại biểu là phù hợp. Nhưng dường như, đôi khi vì quá quan tâm đến cơ cấu, thành phần mà ảnh hưởng đến chất lượng đại biểu. Thực tế trong bầu cử ĐBQH hiện nay, một ứng cử viên phải gánh rất nhiều cơ cấu khác nhau. Có trường hợp người ứng cử phải “gánh” đến 3 - 4 cơ cấu thành phần gồm: đại biểu nữ, đại biểu trẻ, đại biểu là người dân tộc thiểu số, đại biểu ngoài Đảng. Việc phải lựa chọn người giới thiệu ứng cử đáp ứng một lúc quá nhiều cơ cấu chắc chắn sẽ khó có thể chất lượng. Người có đủ tiêu chuẩn, trình độ lại không đảm bảo đủ các tiêu chí hoặc chỉ có thể đáp ứng được 1-2 tiêu chí theo cơ cấu mà người đáp ứng đủ tiêu chí thì trình độ chuyên môn có những hạn chế nhất định. Bên cạnh đó, việc phân bổ nhiều cơ cấu thành phần cho những tỉnh có số lượng đại biểu được bầu ít cũng sẽ dẫn tới khó khăn trong việc lựa chọn giới thiệu những đại biểu chất lượng đại diện cho cử tri địa phương, gây ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động chung của Đoàn ĐBQH tại địa phương.
Thông thường, những người ứng cử phải đảm bảo nhiều cơ cấu thành phần là những nữ ứng cử. Có thể nói, đây cũng là một sự bất bình đẳng giới trong bầu cử. Mặc dù chúng ta cố gắng phấn đấu bảo đảm có ít nhất 35% tổng số người trong danh sách chính thức những người ứng cử ĐBQH là phụ nữ theo quy định của Luật Bầu cử ĐBQH và đại biểu HĐND năm 2015, từ đó nâng cao tỷ lệ ĐBQH nữ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới thực chất. Nhưng việc gắn quá nhiều cơ cấu cho một nữ ứng cử viên thì sẽ không lựa chọn giới thiệu được những người phụ nữ thực sự đủ tài, đủ tầm để đại diện cho cử tri và nhân dân. Đặt trong một danh sách bầu cử, một ứng cử viên nữ có sự khác biệt và chênh lệch quá lớn về trình độ, chuyên môn (do phải lựa chọn giới thiệu người đảm bảo nhiều cơ cấu) thì việc cử tri không tin tưởng lựa chọn bầu họ là điều tất yếu xảy ra. Từ đó dẫn tới tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội vẫn thấp. Hoặc nếu được bầu, nhưng đại biểu nữ không đảm bảo về chất lượng thì cũng rất khó để khẳng định vai trò của các đại biểu nữ trước Quốc hội nói riêng và trong lĩnh vực chính trị nói chung; phần nào gây ảnh hưởng đến chất lượng chung của hoạt động Quốc hội.
Tỷ lệ nữ đại biểu Quốc hội khóa XV là 30,26%
Để khắc phục tình trạng này, trong quá trình lựa chọn người giới thiệu ứng cử, bầu cử, cần kết hợp hài hòa giữa các yếu tố về tiêu chuẩn, năng lực, trình độ của đại biểu với yêu cầu về đảm bảo cơ cấu thành phần. Không nên để một người ứng cử phải “gánh” quá nhiều cơ cấu dẫn tới chất lượng đại biểu thấp nhưng trong tổng thể chung các ĐBQH vẫn cần đáp ứng cơ cấu hợp lý để đảm bảo tính đại diện cho nhân dân. Việc quá nhấn mạnh đến tiêu chuẩn hay cơ cấu đều có thể dẫn đến những hạn chế nhất định, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu lực và hiệu quả hoạt động của Quốc hội, đại biểu Quốc hội. Bên cạnh đó, cần cân đối phân bổ cơ cấu phù hợp giữa các địa phương, hạn chế phân bổ quá nhiều cơ cấu đối với những địa phương có số lượng đại biểu được bầu ít.
2. Về việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của đại biểu Quốc hội
Với các cơ chế và hành lang pháp lý hiện hành, các ĐBQH ngày càng phát huy tốt vai trò, trách nhiệm người đại biểu nhân dân, đại diện cho ý chí, nguyện vọng của Nhân dân, thực hiện hiệu quả các nhiệm vụ lập pháp, giám sát, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước, nắm bắt ý kiến, kiến nghị, giữ mối liên hệ với cử tri. Thường xuyên gắn bó, nắm bắt ý kiến, kiến nghị của cử tri, tăng cường kiến nghị về luật, pháp lệnh; đẩy mạnh thực hiện quyền giám sát, ngày càng đi vào chiều sâu, đến cùng của vấn đề; trách nhiệm trong thảo luận, xem xét, quyết định các nội dung quan trọng của đất nước. Một trong những điểm sáng và minh chứng rõ nét cho sự nỗ lực và trách nhiệm của các ĐBQH trong các nhiệm kỳ gần đây, khẳng định sự độc lập thực hiện các quyền, trách nhiệm của các ĐBQH, đó là có 02 đại biểu đã thực hiện quyền trình dự án Luật: đại biểu Nguyễn Thị Quốc Khánh – Quốc hội khóa XIII với dự án Luật Hành chính công và đại biểu Nguyễn Anh Trí – Quốc hội XV với dự án Luật Bản dạng giới. Tại các kỳ họp Quốc hội, các vị đại biểu Quốc hội đã thực sự trở thành trung tâm của kỳ họp, phát huy trách nhiệm cao trước nhân dân, thể hiện chính kiến rõ ràng, đa chiều đối với các dự án luật và các vấn đề kinh tế xã hội; thắng thắn, không ngại va chạm khi chất vấn, kiến nghị các nội dung mà cử tri quan tâm.
Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện nhiệm vụ của ĐBQH cũng còn tồn tại một số bất cập dẫn tới chất lượng hoạt động của ĐBQH, Đoàn ĐBQH và các cơ quan của Quốc hội:
- Trong hoạt động giám sát: Việc dành thời gian tham gia các Đoàn giám sát của các ĐBQH, đặc biệt là các ĐBQH kiêm nhiệm còn chưa đảm bảo. Đối với các Đoàn ĐBQH có ít đại biểu sinh hoạt tại địa phương thì nhiều khi chỉ có một ĐBQH hoạt động chuyên trách của Đoàn chủ trì, tham gia các buổi giám sát tại địa phương. Hoạt động giám sát của ĐBQH cũng đôi khi chưa thực sự sâu sát, đi tới tận cùng vấn đề, công tác theo dõi sau giám sát chưa được quan tâm chú trọng. Việc thực hiện quyền giám sát cá nhân, độc lập của ĐBQH còn chưa thực sự phổ biến. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như khối lượng công việc cơ quan của các đại biểu kiêm nhiệm lớn dẫn tới hạn chế thời gian dành cho hoạt động đại biểu; chế độ đối với ĐBQH tham gia hoạt động giám sát còn quá thấp, chưa thực sự tương xứng; nhiều ĐBQH còn e dè, nể nang trong quá trình giám sát, đặc biệt là giám sát tại địa phương nơi công tác.
- Trong hoạt động xây dựng pháp luật: Mặc dù đã có 2 ĐBQH thực hiện quyền trình dự án Luật nhưng các điều kiện đảm bảo cho ĐBQH thực hiện quyền này chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn, kinh phí hỗ trợ còn thấp. Bên cạnh đó, đây cũng là một nhiệm vụ khó, đòi hỏi sự kết hợp từ nhiều yếu tố như chuyên môn, nguồn lực, thời gian… mới có thể thành công. Chất lượng tham gia phản biện, góp ý xây dựng Luật tại các kỳ họp chưa đạt hiệu quả tối đa do khối lượng các Luật xin ý kiến tại các kỳ họp lớn, nhiều lĩnh vực yêu cầu chuyên môn sâu, đặc biệt tình trạng gửi tài liệu chậm, muộn còn diễn ra rất phổ biến dẫn đến ĐBQH ở thế bị động, ít có thời gian nghiên cứu.
- Trong việc quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước: Nhiều vấn đề quan trọng của đất nước được thảo luận trước Quốc hội mang tầm vĩ mô, đòi hỏi sự nghiên cứu, am hiểu sâu nhưng không phải tất cả các ĐBQH đều có chuyên môn về lĩnh vực đó nên dẫn tới việc đưa ra các quyết định thông qua của mỗi ĐBQH còn mơ hồ, chưa thực sự chắc chắn, ảnh ảnh hưởng đến chất lượng chung đối với các Nghị quyết được Quốc hội ban hành.
- Trong hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân: Về cơ bản, hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân của các ĐBQH vẫn theo những hình thức truyền thống. Việc đổi mới tiếp xúc cử tri, tiếp công dân chưa theo kịp bối cảnh thực tiễn, chưa khai thác được tối đa những ưu điểm của chuyển đổi số, công nghệ 4.0 trong tiếp xúc cử tri, tiếp công dân. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như dân trí, trình độ chuyên môn của cơ quan tham mưu phục vụ chưa đáp ứng; hệ thống thiết bị, máy móc, cơ sở vật chất chưa đầy đủ và đồng bộ.
Về cơ bản, hoạt động tiếp xúc cử tri, tiếp công dân của các ĐBQH vẫn theo những hình thức truyền thống.
Để khắc phục những hạn chế, bất cập nói trên trong hoạt động của ĐBQH, cần xem xét nghiên cứu, thực hiện một số giải pháp:
- Thứ nhất, tiếp tục chú trọng, tăng cường bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng cho các ĐBQH đặc biệt là đối với các ĐBQH trong thời gian đầu của nhiệm kỳ; triển khai chương trình tập huấn, trao đổi kinh nghiệm kịp thời, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ của mỗi kỳ họp, mỗi năm trong nhiệm kỳ;
- Thứ hai, quy định cụ thể thời gian và cách xác định thời gian tham gia các hoạt động đại biểu của các ĐBQH, đồng thời đưa tiêu chí bảo đảm thời gian tham gia hoạt động Quốc hội vào căn cứ đánh giá ĐBQH;
- Thứ ba, nâng mức kinh phí hỗ trợ, bồi dưỡng các ĐBQH trong quá trình tham gia các hoạt động của Quốc hội đảm bảo sự tương xứng, khích lệ, có cơ chế động viên kịp thời đối với các ĐBQH hoạt động tích cực, đóng góp lớn cho Quốc hội.
- Thứ tư, nâng cao chất lượng bộ máy tham mưu, giúp việc cho Quốc hội nói chung, các Đoàn ĐBQH và các ĐBQH nói riêng cả về trình độ chuyên môn nghiệp vụ và các kỹ năng cần thiết trong bối cảnh mới.
3. Về đại biểu Quốc hội chuyên trách
ĐBQH chuyên trách đóng vai trò quan trọng, nòng cốt trong hoạt động của Quốc hội và các cơ quan của Quốc hội. Bởi vậy, việc tăng số lượng đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách đều được đặt ra trong các nhiệm kỳ Quốc hội gần đây. Tại Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014, đề ra mục tiêu “Số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách ít nhất là ba mươi lăm phần trăm tổng số đại biểu Quốc hội”. Tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020, tỷ lệ này được nâng lên ít nhất 40% tổng số ĐBQH. Thực tế, số lượng đại biểu Quốc hội chuyên trách tăng qua các nhiệm kỳ: Quốc hội khóa XI có 121 đại biểu chuyên trách (chiếm gần 25% tổng số đại biểu Quốc hội), Quốc hội khóa XII có 145 đại biểu chuyên trách (chiếm 29,41%), Quốc hội khóa XIII có 154 đại biểu chuyên trách (chiếm 30,8%), Quốc hội khóa XIV có 167 đại biểu chuyên trách (chiếm 33,80%), Quốc hội khóa XV có 126 đại biểu chuyên trách ở Trung ương và số đại biểu hoạt động chuyên trách ở địa phương trúng cử là 67 người.
Trong số 499 người trúng cử đại biểu Quốc hội khoá XV (nhiệm kỳ 2021 - 2026) có 126 đại biểu đang hoạt động, làm nhiệm vụ chuyên trách ở Trung ương, 67 đại biểu hoạt động chuyên trách ở địa phương. Còn lại 306 đại biểu đang hoạt động, làm việc ở các cơ quan, đơn vị sự nghiệp khác.
Việc tăng số lượng ĐBQH hoạt động chuyên trách ở Trung ương đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc sắp xếp, tổ chức các tiểu ban, kiện toàn các nhóm làm việc phụ trách các lĩnh vực chuyên môn khác nhau của Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội trong điều kiện mỗi cơ quan của Quốc hội đều có phạm vi hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực. Ở mỗi đoàn ĐBQH đều bố trí 01 ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương (thường là Phó trưởng Đoàn ĐBQH). Riêng các tỉnh/ thành phố Hà Nội, Hồ Chí Minh, Thanh Hóa, Nghệ An được bố trí 02 ĐBQH chuyên trách ở địa phương. Điều này giúp cải thiện và nâng cao rõ rệt chất lượng hoạt động của Đoàn ĐBQH tại địa phương. Thực tế đã cho thấy chủ trương tăng tỷ lệ ĐBQH hoạt động chuyên trách là rất cần thiết, phù hợp, đúng đắn, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao chất lượng, hiệu quả, tính khách quan trong hoạt động Quốc hội.
Tuy nhiên, tỷ lệ ĐBQH chuyên trách hiện nay vẫn chưa đạt con số “ít nhất 40%” được đề ra tại Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Tổ chức Quốc hội năm 2020. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu liên quan đến cơ cấu, tiêu chuẩn của mỗi đại biểu. Việc yêu cầu nhiều cơ cấu, tiêu chuẩn trên một đại biểu dẫn đến việc lựa chọn những người để giới thiệu ứng cử dự kiến là ĐBQH chuyên trách sẽ bị hạn chế. Theo các quy định hiện hành, ngoài các tiêu chuẩn chung đối với ĐBQH, các ĐBQH chuyên trách phải đáp ứng các tiêu chí về chức vụ đang đảm nhận trước khi trở thành ĐBQH chuyên trách: đối với đại biểu hoạt động chuyên trách ở Trung ương phải giữ chức vụ từ Vụ trưởng và tương đương trở lên; một số trường hợp đặc biệt phải từ Phó Vụ trưởng; ở địa phương phải giữ chức vụ là Giám đốc Sở và tương đương trở lên. Điều kiện tiêu chuẩn đặt ra đối với ĐBQH chuyên trách là điều kiện về chức vụ lãnh đạo, quản lý, nhưng trong hoạt động đại biểu, điều kiện này chưa thực sự phù hợp và trở thành rào cản đối với việc lựa chọn giới thiệu ĐBQH chuyên trách. Bởi năng lực lãnh đạo, quản lý và năng lực hoạt động đại biểu là hoàn toàn khác nhau. Thực tế cho thấy, nhiều cán bộ, nhà khoa học không giữ các chức vụ quản lý cao trong các cơ quan nhà nước nhưng nếu xét cả về trình độ, kinh nghiệm, mức độ chuyên sâu trong nhiều lĩnh vực thì họ là những chuyên gia hàng đầu, chắc chắn sẽ có những đóng góp to lớn cho các hoạt động Quốc hội.
Bên cạnh đó, nếu như chúng ta chỉ quá tập trung vào cơ cấu, tỷ lệ đại biểu hoạt động chuyên trách mà không chú trọng tới chất lượng của đại biểu chuyên trách thì vẫn sẽ không đảm bảo được yêu cầu đặt ra. Tỷ lệ đại biểu chuyên trách cao phải song song cùng với chất lượng đại biểu chuyên trách cao. Có như vậy, hoạt động của Quốc hội nói chung và của ĐBQH chuyên trách nói riêng mới thực sự chuyên nghiệp và hiệu quả. Chất lượng đại biểu chuyên trách cần được quan tâm ở những giai đoạn khác nhau. Ở giai đoạn giới thiệu người ứng cử, bầu cử, chúng ta phải lựa chọn đảm bảo những tiêu chí về chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ, đạo đức là những yếu tố cơ bản cần có tạo nên một người đại biểu có tâm, có tầm. Ở giai đoạn ĐBQH chuyên trách đã đi vào thực hiện nhiệm vụ, cần tiếp tục đề cao việc trau dồi kỹ năng, kiến thức, đồng thời có những quan tâm, chính sách, đãi ngộ xứng đáng đối với đại biểu.
Đoàn ĐBQH tỉnh Bắc Kạn tại Kỳ họp thứ 6 Quốc hội khóa XV.
Đối với nội dung này, quá trình thực hiện còn có những bất cập khiến các ĐBQH chuyên trách còn tâm tư, ít nhiều gây ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động của ĐBQH chuyên trách:
- Về công tác cán bộ:
+ Việc bố trí nhân sự đảm nhiệm chức danh Phó trưởng đoàn ĐBQH giữa các địa phương hiện nay chưa thực hiện thống nhất. Có những địa phương bố trí Phó ngành hoặc tương đương (như Hòa Bình, Ninh Bình, Long An…), có địa phương bố trí Trưởng ngành hoặc tương đương để điều động, luân chuyển làm Phó trưởng Đoàn ĐBQH. Có địa phương bố trí Ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy làm Phó trưởng Đoàn ĐBQH (như Thái Nguyên, Quảng Trị…). Việc xem xét, bố trí các Phó trưởng Đoàn vào các vị trí tiếp theo khi không tham gia Quốc hội nữa cũng chưa có những tiêu chí, quy định thống nhất.
+ Đối với các trường hợp ĐBQH hoạt động chuyên trách, khi gần hết nhiệm kỳ Quốc hội mà không đủ tuổi tái cử thì được bố trí công tác khác cho đến tuổi nghỉ hưu, nhưng có những trường hợp, chức vụ mới đảm nhiệm có phụ cấp chức vụ, phụ cấp lương thấp hơn các chế độ lương đang được hưởng. Điều này tạo nên sự thiệt thòi đối với ĐBQH chuyên trách.
- Về công tác thi đua, khen thưởng: Hiện nay, chưa có quy định về việc khen thưởng đối với ĐBQH chuyên trách, đặc biệt là đối với trường hợp ĐBQH chuyên trách đã có thời gian cống hiến với Quốc hội nhiều nhiệm kỳ. Điều này ảnh hưởng đến việc áp dụng một số chính sách tiền lương lấy căn cứ là các kết quả thi đua, khen thưởng để xem xét như việc nâng lương trước hạn.
- Về lương, phụ cấp và các chế độ khác: Theo quy định, về cơ bản các khoản phụ cấp, chế độ tham gia các hoạt động của Quốc hội, chế độ tham gia kỳ họp Quốc hội của các ĐBQH chuyên trách không có sự khác biệt nhiều so với ĐBQH kiêm nhiệm, trong khi ĐBQH chuyên trách phải dành 100% thời gian và tâm huyết cho hoạt động Quốc hội.
- Về bộ máy giúp việc:
+ Đối với các ĐBQH chuyên trách ở trung ương, các chức danh Chủ tịch Hội đồng dân tộc, Chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội được bố trí thư ký riêng giúp việc, Phó chủ tịch, Phó chủ nhiệm các Ủy ban của Quốc hội được bố chuyên viên giúp việc bán chuyên trách; còn các Ủy viên của Ủy ban được Vụ chuyên môn giúp việc chung. Điều này cũng gây áp lực đối với các đại biểu là Ủy viên chuyên trách tại các Ủy ban của Quốc hội. Bởi thực tế, số lượng chuyên viên tại các vụ chuyên môn không nhiều, cùng với đó là khối lượng công việc chuyên môn lớn.
+ Đối với ĐBQH hoạt động chuyên trách ở địa phương, bộ máy giúp việc của Đoàn ĐBQH là trước đây là Văn phòng Đoàn ĐBQH và hiện nay Văn phòng Đoàn ĐBQH và HĐND tỉnh. Qua nhiều lần thực hiện sắp xếp lại bộ máy tổ chức, công tác tham mưu, phục vụ của Văn phòng cũng có phần xáo trộn. Bên cạnh đó, sau khi thực hiện sát nhập 2 bộ máy giúp việc, số lượng công chức tham mưu, phục vụ hoạt động của nhiều Đoàn ĐBQH bị giảm đi do việc điều động, luân chuyển công chức từ phòng phục vụ hoạt động Quốc hội sang các phòng chuyên môn khác. Điều này cũng ảnh hưởng đến chất lượng tham mưu, phục vụ cho Đoàn, mà trực tiếp chính là các Phó trưởng Đoàn ĐBQH, các ĐBQH chuyên trách ở địa phương.
Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQHh tỉnh Tuyên Quang giám sát việc thực hiện Nghị quyết số 88/2013/NQ-H13 và Nghị quyết số 51/2017/NQ-QH14 của Quốc hội về đổi mới chương trình, sách giáo khoa giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Tuyên Quang.
- Về địa vị pháp lý của ĐBQH ở địa phương: Địa vị pháp lý của đại biểu Quốc hội chuyên trách ở địa phương hiện nay chưa được xác định rõ, đặc biệt là trong mối quan hệ đối với các cơ quan tại địa phương. Trong việc thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của ĐBQH chuyên trách tại địa phương như giám sát, tiếp công dân, tiếp xúc cử tri cũng không có sự khác biệt với ĐBQH hoạt động kiêm nhiệm. Điều này ảnh hưởng đến việc xác định vị thế của đại biểu chuyên trách tại địa phương, dẫn tới các hoạt động của đại biểu chuyên trách chưa thực sự tạo “sức nặng” đối với các cơ quan địa phương, nhất là trong quá trình giám sát việc thực hiện các chính sách pháp luật.
Để khắc phục những bất cập nêu trên và nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động của ĐBQH hoạt động chuyên trách, cần nghiên cứu xem xét hoàn thiện một số nội dung sau:
Thứ nhất, đối với các ĐBQH chuyên trách nói chung:
- Cần nghiên cứu xây dựng những tiêu chí phù hợp để lựa chọn ĐBQH chuyên trách, không quá chú trọng đến tiêu chí về chức danh lãnh đạo mà cần xem xét về khả năng trong hoạt động đại biểu;
- Nghiên cứu xây dựng quy chế khen thưởng đối với ĐBQH đặc biệt là các ĐBQH hoạt động chuyên trách, các ĐBQH hoạt động nhiều nhiệm kỳ;
- Xem xét hoàn thiện, bổ sung cơ chế hoạt động đối với bộ máy giúp việc cho ĐBQH hoạt động chuyên trách;
- Xem xét các yếu tố đặc thù để đề xuất, quyết định mức lương phù hợp, xứng đáng đối với các ĐBQH chuyên trách khi thực hiện Đề án cải cách tiền lương;
- Quy định việc bố trí công tác đối với các ĐBQH chưa đến tuổi nghỉ hưu nhưng không đủ tuổi tái cử.
Thứ hai, đối với các ĐBQH chuyên trách tại địa phương:
- Làm rõ địa vị pháp lý, nâng cao vị thế của ĐBQH chuyên trách ở địa phương, đặc biệt là mối quan hệ của của ĐBQH, Đoàn ĐBQH đối với các cơ quan ở địa phương;
- Xây dựng quy định cụ thể, thống nhất về điều kiện, tiêu chuẩn đối với vị trí ĐBQH chuyên trách và Phó trưởng đoàn ĐBQH chuyên trách ở địa phương, việc bố trí cán bộ khi không tái cử ĐBQH;
- Hướng dẫn thống nhất về việc bình xét, thi đua, đánh giá đối với ĐBQH chuyên trách ở địa phương.
Nâng cao chất lượng ĐBQH nói chung và chất lượng ĐBQH chuyên trách nói riêng là yêu cầu tất yếu đặt ra để góp phần nâng cao chất lượng hoạt động chung của Quốc hội. Để thực hiện được mục tiêu đó, cần tiếp tục rà soát, hoàn thiện các quy định pháp luật, bổ sung các cơ chế cần thiết để lựa chọn được những đại biểu thực sự “đủ tâm, đủ tầm”, tạo điều kiện cho các ĐBQH hoàn thành tốt nhiệm vụ người đại biểu nhân dân, xứng đáng với niềm tin và kỳ vọng của cử tri./.
TS.Nguyễn Thị Việt Nga Phó Trưởng Đoàn chuyên trách Đoàn ĐBQH tỉnh Hải Dương |